Nhiều người, nhiều đoàn Việt Nam đã đến Israel và một số nước tham quan, học tập. Có địa phương ban hành chỉ thị hẳn hoi về chủ trương phát triển NNCNC. Ngôn từ “Cách mạng công nghiệp lần 4”, “công nghiệp 4.0”, “NNCNC” xuất hiện ngày càng dày hơn trên truyền thông và các văn bản nhà nước. Có nhiều người hy vọng áp dụng sản xuất NNCNC sẽ khắc phục được mọi trì trệ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, không còn tái diễn tình cảnh giải cứu nông sản. Khi tuyên truyền về NNCNC thường kèm với hình ảnh nhà màng, nhà lưới, dưa lưới, tưới nhỏ giọt - tiết kiệm nước... Vậy nông nghiệp ĐBSCL đang gặp trục trặc gì mà phải giải cứu bằng áp dụng công nghệ cao?
Hết giải cứu bằng Đổi mới, rồi sẽ bằng công nghệ cao?
Gặt lúa bằng máy ở ĐBSCL. Ảnh: Hoàng Kim.
Hơn 40 năm qua, nông dân - nông nghiệp ĐBSCL đã hơn một lần phải giải cứu đó là vào năm 1986, sau Đại hội VI của Đảng, gọi là Đổi mới hay nói như tinh thần bài này là giải cứu cơ chế, thuộc phạm trù quan hệ sản xuất. Sự thật là do ta tự trói mình trong cơ chế kế hoạch hóa - tập trung - quan liêu - bao cấp, khiến một vùng vốn từng là vựa lúa xứ Đông Dương thời thuộc Pháp, trở thành thiếu ăn, dân đói, xã hội đứng trước nguy cơ mất ổn định. Vì vậy nhu cầu cấp thiết là phải tự cắt bỏ dây trói, tự giải cứu, sản xuất lưu thông trở lại bình thường như trước 1975. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1986-1996 hết sức ấn tượng và không chỉ trong nông nghiệp.
Cũng nhờ giải cứu cơ chế, nông dân có quyền sử dụng đất lâu dài, quyền chủ động sản xuất, tự do bán sản phẩm, tiếp cận vốn ngân hàng; cùng với các chương trình khuyến nông, nông dân sản xuất giỏi, áp dụng giống mới... đến thập niên đầu thế kỷ 21 sản xuất gần như được cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học và sinh học hóa. Một sự tương tác rất rõ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Năm 1988, khi chương trình khai thác Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên của Chính phủ được triển khai, thì đến năm 1995 tổng sản lượng lúa tại 13 tỉnh thành ĐBSCL đã tăng vọt, đạt gần 13 triệu tấn, năm 2015 lên 25,7 triệu, chiếm 57,11% cả nước.
Trước tình cảnh đau đầu vì lúa ế, có người than: “Thà đói hơn ăn no mà không tiêu” là ngữ cảnh này. Con cá ba sa, cá tra cũng từng xuất khẩu thu về gần 2 tỉ đô la Mỹ hàng năm nhưng số phận cũng “phập phều” như cây lúa. Trái cây, rau, dưa, củ, quả... cũng là thế mạnh của đồng bằng nhưng cũng hay phải bỏ, không thu hoạch hoặc cho bò ăn. Việc sử dụng, đa phần là bừa bãi, các loại phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật độc hại được nhập khẩu, khó kiểm soát gây mất niềm tin an toàn thực phẩm ngày càng nghiêm trọng. Vườn rau mini của gia đình lại trở thành “biểu tượng” của niềm tin chất lượng thực phẩm sạch.
Như vậy, vấn đề ở đây không đơn thuần là năng lực của lực lượng sản xuất mà là chất lượng làm chủ sản xuất, bao gồm cơ chế - thể chế và văn hóa kinh doanh, thuộc phạm trù quan hệ sản xuất. Cho dù có quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát triển, nhưng nếu lấy lực lượng sản xuất thay cho quan hệ sản xuất là không ổn.
Theo định nghĩa phổ thông hiện nay thì “nông nghiệp công nghệ cao là một nền nông nghiệp được ứng dụng kết hợp những công nghệ mới, tiên tiến để sản xuất, còn gọi là công nghệ cao nhằm nâng cao hiệu quả, tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng nông sản, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội và đảm bảo sự phát triển nông nghiệp bền vững”. Vậy NNCNC thuộc phạm trù lực lượng sản xuất - văn minh kinh tế, nhiều nước tiên tiến và một số nơi ở Việt Nam đã làm, không có gì mới, và nó hoàn toàn không thay được vai trò của quan hệ sản xuất đang bức bách hiện nay.
NNCNC là cốt lõi của nông nghiệp hiện đại, là cái bên trong chiếc thuyền chớ không phải là chiếc thuyền (thiết chế) đưa nông sản đi dự hội chợ. Ở các nước có thị trường tự do, có văn minh kinh tế, họ không nói nhưng sự liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân là tự nhiên, tôn trọng đầy đủ các quy luật kinh tế thị trường, làm tăng chuỗi giá trị sản xuất, tạo được niềm tin và ổn định thị trường, kể cả thị trường ngoài nước.
Ở ta, thị trường còn nhiều nét đặc thù nên hội nhập thị trường thế giới rất khó khăn mà ngành ngoại thương đang nỗ lực vận động để được công nhận “có kinh tế thị trường đầy đủ”. Ngay như với thị trường Trung Quốc, so với ta có nhiều tương đồng, nếu không nói giống nhau về thể chế - cơ chế và cung cách vận hành, mà còn chưa thông suốt và cũng không ổn định nữa là. Vậy tại sao?
Đâu là cách làm của Việt Nam?
Mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội bao giờ cũng có nhân vật - thành phần trung tâm chi phối. Trong chế độ phong kiến, có một thời gian dài thành phần địa chủ có vai trò nhất định. Trong cách mạng dân tộc - dân chủ có vai trò công-nông-trí thức. Trong kinh tế thị trường có vai trò tư sản dân tộc. Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật và chế tài luật pháp chớ không trực tiếp làm kinh tế như ta lâu nay. Ta đang làm kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế nhưng thành phần kinh tế tư nhân đang thiếu và rất yếu nên hội nhập rất khó khăn, hệ thống chính trị nhà nước quá đông, tưởng mạnh nhưng thật ra là không đáp ứng được yêu cầu.
Cụ thể như Luật Đất đai 2003 phải có đến 700 văn bản pháp quy hướng dẫn mà nông dân và doanh nghiệp vẫn còn vướng, chưa an tâm. Luật Đất đai 2013 cũng đang tồn tại những vấn đề cốt lõi về sở hữu và quyền định đoạt giá trị đất đai của chủ sử dụng theo cơ chế thị trường. Bộ Công Thương đi tiên phong đã cắt giảm và đơn giản hóa tới 306 thủ tục (trong đó cắt giảm 64 thủ tục, đơn giản hóa 242 thủ tục) trong tổng số 891 thủ tục của bộ tại thời điểm 2016-2017, vậy mà sản xuất và thị trường vẫn chưa chuyển động đáng kể. Còn bao nhiêu rào cản tương tự ở các bộ ngành khác, đang xiềng xích thị trường, vẫn chưa được tháo gỡ.
Hệ thống chính trị nhà nước đông, nhiều tầng nấc đến mức chồng chéo chức năng, giẫm đạp nhiệm vụ lẫn nhau, kém hiệu lực, hiệu quả. Ngân sách không kham nổi chi thường xuyên đồng nghĩa với việc làm giá thành dịch vụ hành chánh công ở ta vào hàng cao nhất so với nhiều nước khiến cho sản xuất kém tính cạnh tranh. Rồi cơ sở hạ tầng giao thông - logistics kém cũng “góp phần” làm cho giá thành và chất lượng nông sản của ta không cạnh tranh nổi với Thái Lan. Tất cả như góp vào, làm cho thị trường không được tự do, trong khi ta lại đang cố gắng hội nhập vào thị trường tự do. Vì vậy, thua là cái chắc. NNCNC tự nó không giải quyết được toàn bộ vấn đề giá thành, không làm tăng tính cạnh tranh và niềm tin xã hội - khách hàng đối với chất lượng cao của nó, đặc biệt là không giải quyết được những bất cập trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh nói chung.
NNCNC phải do doanh nghiệp tư nhân trực tiếp tổ chức sản xuất hoặc hướng dẫn chủ trang trại, nông dân các HTX làm theo quy trình kỹ thuật cụ thể, có hợp đồng pháp lý hẳn hoi. Nông dân không thể “tự sản tự tiêu” với sản lượng lớn theo kiểu mùa vụ, hoặc giao thương với “lái lạ” nhiều may rủi như lâu nay. Nhà nước chỉ tạo hành lang pháp lý, chế tài luật pháp, tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ có trọng tâm, trọng điểm; xây dựng hạ tầng giao thông, logistics thông thoáng; xây dựng nền giáo dục theo hướng thực dụng hơn; dùng quyền năng của Nhà nước để trừng trị gian thương và cán bộ tham nhũng giúp thị trường trong sạch vững mạnh là nông nghiệp đủ sức cạnh tranh.
Mặt khác phải bỏ cách tập trung vào xuất khẩu như lâu nay để đi nhập nông sản Thái, Mỹ, Tàu, Tây... về ăn. Đó mới là cách giải cứu kinh tế nói chung, cho nông nghiệp ĐBSCL nói riêng trong tình hình hiện nay.
Thời báo Kinh tế Sài Gòn