Đảng lãnh đạo đấu tranh giành
chính quyền (1930 - 1945)
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách
mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đó là:
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào
XôViết-Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của thực dân Pháp và tay
sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị
bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách
mạng ở một số nơi theo hình thức XôViết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã
khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại
những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân
tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ
chính quyền.
Cao trào cách mạng đòi dân
sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về
dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng
chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh
nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức,
lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
Cao trào cách mạng giải phóng dân
tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết
của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái,
chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến
sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm
1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ
phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của
cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình
lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa
lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc”.
Đảng lãnh đạo đấu tranh giải
phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 - 1975)
Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính
quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây
dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế
độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ
chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và
chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ
chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược
khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động
chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta
một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn
quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt
đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao
là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống
trị của thực dân Pháp ở nước ta.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký
kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục
kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc
Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai
đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm
đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ
thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu
dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận;
kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng,
thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại
giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối
lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất
khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to
lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế
giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh
tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là một trong những trang chói lọi
nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu
sắc.
Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi
phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã
giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban
đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người,
sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Thời kỳ tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975
đến nay
Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa
ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên
giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia;
đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng
bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ
chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế,
nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa,
có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong
những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước những thách thức của thời kỳ
mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban
hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV)
về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và
công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí
thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động
và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/QĐ-CP
ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và
những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986)
về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...
Trên cơ sở đánh giá tình hình
đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại
hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái
trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ,
triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và
phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Các nghị quyết của Đảng từ Đại
hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối
đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc
đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn
Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng Cộng
sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi
mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành
Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan
trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến
pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá
trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và
giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh
1991 và 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với
sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh
tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn
hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những
thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của
Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của
nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối
ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với
189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày
càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng
đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng
500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng
viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước,
vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã
để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
Những thành tựu qua 35 năm thực hiện
đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp
theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng
đắn, sáng suốt của Đảng ta.
Những bài học kinh nghiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng
Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài
học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc
là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ
sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Hai là, sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân
dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải
xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng
là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân
sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ
xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba
là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền
thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành
công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong
bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh
thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực,
kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn
đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy
cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán
bộ, đảng viên.
Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản
kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo
Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ
đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh,
về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam
ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách
nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh,
hòa bình và thịnh vượng.
Hà Nam