Bộ Công Thương nhận định, việc đạt mức xuất khẩu bình quân 20,45 tỷ USD/tháng cho 6 tháng cuối năm là một thách thức rất lớn. (Ảnh minh họa)
Điều đáng mừng là kim ngạch xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước đã tăng 19,9% so với cùng kỳ 2017, ước đạt 33,1 tỷ USD, mức tăng cao nhất trong 3 năm trở lại đây.
Xuất siêu 2,7 tỷ USD trong nửa đầu năm 2018
Theo báo cáo mới nhất từ Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu nửa đầu năm 2018 ước đạt 113,93 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2017, thấp hơn mức tăng 19,4% của cùng kỳ năm 2017 so với năm 2016.
Trong đó, có 20 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Những mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu tiếp tục là điện thoại các loại và linh kiện (22,5 tỷ USD), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (13,45 tỷ USD), hàng dệt, may (13,42 tỷ USD), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (7,8 tỷ USD), giày dép các loại (7,79 tỷ USD).
Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục chuyển dịch theo chiều hướng tích cực. Theo đó, xuất khẩu các sản phẩm thô và các ngành khoáng sản đang giảm dần với tỷ trọng chiếm 1,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (năm 2017 chiếm 2,5%), giảm 2,5% so với cùng kỳ năm 2017.
Đồng thời, tỷ trọng xuất khẩu đối với các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng như các sản phẩm ngành nông sản, thủy sản đang được cải thiện với tỷ trọng hai nhóm hàng này đạt lần lượt là 81,9% và 11,8% (tỷ lệ này năm 2017 lần lượt là 80,2% và 12,5%).
Về thị trường xuất khẩu, Bộ Công Thương đánh giá, Việt Nam đã tận dụng tốt các ưu đãi về thuế quan trong các FTA đã ký kết để mở rộng các thị trường xuất khẩu mới. Trong 6 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Mỹ tăng 9,2%, EU tăng 12,3%, Trung Quốc tăng 28%, Hàn Quốc tăng 31,8%, ASEAN tăng 17,4%,…
Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường tiềm năng cũng ghi nhận đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung như Ấn Độ tăng 96,6%, Irac tăng 27,9%, Ukraine tăng 21,1%, Australia tăng 22,4%, Nga tăng 25,4%...
Đáng chú ý, khu vực có vốn đầu tư trong nước đã cải thiện tốc độ tăng trưởng so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực 100% vốn trong nước xuất khẩu ước đạt 33,07 tỷ USD, tăng 19,9%, cao hơn mức tăng 16,3% của năm 2017.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất khẩu ước đạt 80,86 tỷ USD, tăng 14,5%, thấp hơn mức tăng 20,7% của năm 2017.
Về nhập khẩu, theo số liệu của Bộ Công Thương, kim ngạch nhập khẩu nửa đầu năm 2018 ước đạt 111,22 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2017.
Trong đó, kim ngạch của nhóm hàng cần nhập khẩu ước đạt 98,91 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2017, chiếm 88,9% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Kim ngạch của nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu ước đạt 7,02 tỷ USD, chiếm 6,3% tỷ trọng nhập khẩu và tăng 9,1% so với cùng kỳ. Trong nhóm mặt hàng cần kiểm soát, một số mặt hàng nhập khẩu tăng đáng chú ý là rau quả ước nhập khẩu 757 triệu USD, tăng 18,9% và phế liệu sắt thép ước nhập khẩu 890 triệu USD, tăng 52,7%.
Trong 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam nhập khẩu từ Châu Á chiếm hơn 80% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (chiếm 28% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, tăng 15,6%), Hàn Quốc (chiếm 20,2%, giảm 0,8%), ASEAN (chiếm 13,7%, tăng 11,8%), Nhật Bản (chiếm 8%, tăng 12,2%)…
Khu vực 100% vốn trong nước nhập khẩu ước đạt 46 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ, thấp hơn mức tăng của năm 2017 (tăng 20,8%). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu ước đạt 65,21 tỷ USD, tăng 8,1% (thấp hơn mức tăng 27,8% của năm 2017).
Về cán cân thương mại hàng hóa, nửa đầu năm 2018 cả nước xuất siêu khoảng 2,7 tỷ USD, chiếm gần 2,4% kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu của khu vực trong nước cao nhất trong vòng 3 năm
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm có những điểm tích cực được thể hiện qua mức tăng trưởng của xuất khẩu khối doanh nghiệp trong nước. Trong nửa đầu năm, khối doanh nghiệp này xuất khẩu khoảng 33,1 tỷ USD, tăng 19,9%, cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu chung và cao nhất trong 3 năm trở lại đây.
Mặt khác, xuất khẩu tăng cao ở quý 1 (tăng 24%) nhưng giảm đà tăng trưởng trong quý 2 (cả quý 2 tăng 10%). Tuy nhiên, nếu xét về giá trị tuyệt đối, bình quân quý 2/2018 xuất khẩu đạt khoảng 19,5 tỷ USD/tháng, cao hơn bình quân quý 1/2018 (18,5 tỷ USD/tháng).
Việc tăng trưởng quý 2 đạt mức thấp so với quý 1 là do năm 2017, xuất khẩu quý 1 ở mức thấp, đạt bình quân 14,9 tỷ USD/tháng và chỉ bắt đầu tăng trưởng từ quý 2 với mức bình quân 17,7 tỷ USD/tháng.
Ngoài ra, mức tăng trưởng của xuất khẩu điện thoại đã tác động khá lớn đến sự thay đổi mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giữa quý 1 và quý 2. Cụ thể, xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong quý 1/2018 đạt 12,6 tỷ USD, tăng 62% trong khi quý 2 chỉ đạt 9,9 tỷ USD, giảm 15,5%.
"Sự thay đổi về tăng trưởng kim ngạch này xuất phát từ sự thay đổi về thời điểm xuất bán sản phẩm điện thoại mới trong hai năm 2017 và 2018, không thể hiện sự sụt giảm về kim ngạch xuất khẩu. Thực tế, tổng kim ngạch xuất khẩu điện thoại trong 6 tháng đầu năm 2018 vẫn tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2017", Bộ Công Thương lý giải.
Đánh giá về 6 tháng cuối năm 2018, Bộ Công Thương cho rằng, vẫn có những yếu tố thuận lợi để tăng trưởng xuất khẩu.
Thứ nhất, sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp dự báo tăng tích cực xét trên các yếu tố như nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước tăng mạnh trong quý 1, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng khá.
Thứ hai, theo chu kỳ, thông thường xuất khẩu nông, thủy sản tăng vào giữa năm và đạt mức cao nhất vào thời điểm cuối năm; các mặt hàng công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may, giày dép, đồ gỗ đều bước vào mùa vụ xuất khẩu từ giữa quý 2/2018.
Thứ ba, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định FTA Việt Nam - EU dự kiến có hiệu lực vào năm 2019 đã và đang tạo ra sức hút mới cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, giúp Việt Nam có thêm năng lực sản xuất mới.
Thứ tư, đầu tư trong nước được hỗ trợ bởi tâm lý lạc quan, môi trường kinh doanh thuận lợi, chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất ổn định, dự báo cũng sẽ tiếp tục khởi sắc và cùng với đầu tư nước ngoài tạo ra năng lực sản xuất mới.
Tuy nhiên, Bộ Công Thương cũng cho rằng, xuất khẩu những tháng cuối năm tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Nổi bật là việc các nước tăng cường áp dụng các biện pháp bảo hộ, quy định tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và về bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe khiến sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn trên các thị trường nhập khẩu.
Từ đó, Bộ Công Thương nhận định việc đạt mức xuất khẩu bình quân 20,45 tỷ USD/tháng cho 6 tháng cuối năm là một thách thức rất lớn trong bối cảnh thị trường thế giới còn nhiều biến động khó lường.
Duyên Duyên (VN Economy)